Hạ Đình Nguyên
(Bài đăng trên BBC Tiếng Việt ngày 30/9/2012, nhan đề Hà Nội, Bắc Kinh và vấn đề dân chủ, không có những phần chữ đỏ)
Thời sự mấy tuần nay cho thấy áp lực của Bắc Kinh vào Việt Nam, và Biển đông
tạm lắng dịu – sự lắng dịu đáng nghi ngờ mà mọi người quan tâm đến thời
cuộc đang nín thở cảnh giác – thì lập tức Việt Nam nổi lên những vấn
nạn về Dân chủ.
Dư luận chưa ngớt
xôn xao với chỉ thị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về ngăn cấm, cảnh cáo
và lên án những trang mạng xã hội, thì tiếp đến là phiên tòa xét xử 3
blogger với các bản án được dư luận cho là không thích hợp, cùng sự xuất
hiện những bài báo của những tờ báo nhà nước chính thống (Nhân dân,
Quân đội Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc), có nội dung thống nhất, đồng loạt
đã kích và lên án những người xuống đường chống bành trướng Bắc Kinh,
chống bất công, đòi lại đất đai, đòi dân chủ và nhân quyền trong thời
gian qua, họ đều được xem là bọn cơ hội, là thuộc thế lực thù địch, phản
động, là âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” do phương Tây chủ xướng,
nhằm chống lại nhà nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Có
người đặt câu hỏi, đây là sự tình cờ trùng hợp, hay có sự sắp đặt “đồng
thuận” nào đó của Bắc Kinh, khi mà sự lắng dịu tạm thời do Bắc Kinh
giảm nhẹ áp lực lên Việt Nam, thì lập tức Việt Nam rảnh tay, thẳng tay
trấn áp những người đòi dân chủ và chống xâm lược Bắc Kinh, nhất là ngay
sau khi TT Nguyễn Tấn Dũng trở về từ chuyến đi Trung Quốc và gặp Tập
Cận Bình?
Cách đây không lâu, giới bình luận
quốc tế cho rằng, hành động bành trướng và hung hăng của Bắc Kinh là tạo
điều kiện thuận lợi cho Mỹ gắn bó lại với các nước Đông Nam Á. Vì để
bảo vệ nền độc lập của mình, trước đe dọa xâm lăng của Bắc Kinh, các
nước Đông Nam Á cần sự gắn kết và hổ trợ của các nước lớn khác, đặc biệt
là Mỹ, như một thế lực đối trọng. Nay Bắc Kinh bỗng hạ giọng, đổi chiến
thuật, đi vòng quanh các nước, hứa hẹn hòa bình, cam đoan duy trì ổn
định, không bắt nạt ai. Các nước Đông Nam Á, từ thế đứng độc lập sẳn có,
tỏ ra bình tĩnh; nhưng riêng Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, thế đứng chênh
vênh miệng cọp nên rất mừng rỡ, các lãnh đạo ai nấy đều phát biểu “đồng
thuận” với Bắc Kinh. Nhưng đồng thuận trong chủ trương giữ hòa bình Biển
đông, sao lại vội vàng quay ra trấn áp những đòi hỏi bức xúc của nhân
dân về yêu cầu dân chủ có thật và những biểu thị tinh thần yêu nước khi
đất nước bị đe dọa chù quyền và lãnh hải bị xâm phạm? Thái độ nhà nước
đang tỏ ra giận dữ, triển khai trấn áp thành phần nầy, bên cạnh chiến
dịch chống tham nhũng đang hồi diễn tiến gay go trong nội bộ nhà nước,
cùng với cơn lốc tài chánh đang gia tăng.
Bắc Kinh sẽ hưởng được lợi ích gì sau một nước cờ cao, với kế “thập diện mai phục” qua 4 hiện tượng mai phục sau:
1.
Khi Việt Nam thực hiện mạnh bạo các hành động trấn áp, bóp nghẹt thông
tin, triệt hạ internet, bỏ tù các blogger, đàn áp, miệt thị những người
biểu tình, không chấp nhận phê phán, phản biện là đi ngược lại xu thế
hội nhập và dân chủ, là không thực thi Công ước Quốc tế về Dân sự và
Chính trị, về Hợp tác thương mại mà Việt Nam đã ký kết tham gia; là
thách thức công khai đối với cộng đồng quốc tế về mối liên kết thế và
lực, cùng các giá trị thời đại; là xóa bỏ những nổ lực và cam kết của
mình với cộng đồng thế giới trước đây; tức là Việt Nam tự đẩy mình ngày
càng xa với cộng đồng thế giới, cũng đồng thời có nghĩa là lùi dần về
phía Bắc Kinh. Việc làm này đã phát đi một tín hiệu lan ra khắp thế giới
rằng, Việt Nam đã nói tiếng “không” với trào lưu hội nhập. Thái độ kiên
quyết “ăn thua đủ”, hay “ai thắng ai” đối với 10 Điếu Cày hay 100 loại
Điếu Cày, cũng không bù đắp được sự mất mát hình ảnh của một đất nước có
lịch sử vang lừng về yêu chuộng hòa bình, từng được sự ủng hộ của nhiều
quốc gia trên thế giới trong thời kỳ kháng chiến. Là vì nỗi ám ảnh về
một “mùa xuân Ả Rập”, hay là vì một áp lực từ Bắc Kinh? Cả hai lý do đều
không hợp lý, cả hai lý do đều bộc lộ một sự thiếu tự tin không đáng
có. Lý Hiển Long, Thủ tướng Singapore, đã nói gì với Hồ Cẩm Đào tại Bắc
Kinh? Ông ấy nói rằng biển, đảo, tài nguyên phía dưới biển đều là quý,
nhưng không thể so sánh với hình ảnh một Trung Quốc trước cái nhìn của
thế giới (ý khuyên rằng hãy bỏ cái mặt hung hăng sát khí, thay vào đó
bằng cái mặt nhân văn, dân chủ, tử tế, biết điều hơn, thì có lợi ích lớn
lao hơn ). Sự biểu dương quyền lực của nhà nước Việt Nam, thể hiện qua
các phiên tòa và các vụ đàn áp nông dân, có lẽ không có lợi ích gì đáng
kể, so với mất mát nhiều mặt, về quan hệ quốc tế, về tính khoan dung, độ
lượng và sức chứa nhỏ nhoi của một nhà nước, mệnh danh là Nhà nước Xã
hội Chủ nghĩa, một học thuyết được tự cho là cao cả! Đây là thành quả
đầy ý nghĩa, không làm mà được của Bắc Kinh. Họ không mong muốn gì hơn thế,
không tốn viên đạn nào, không mang tai tiếng với các nước láng giềng.
Nói khác, Việt Nam đã lọt vào bẫy của Bắc Kinh, khi tiến hành đàn áp
những yêu sách đòi cải thiện dân chủ của nhân dân.
2.
Những cuộc trấn áp càng dữ dằn bao nhiêu, trong tình hình mà nhà nước
đang rơi vào vòng xoáy tham nhũng chưa thấy rõ lối ra, càng làm cho
khoảng cách giữa nhân dân và nhà nước càng lớn, quan hệ nhà nước và nhân
dân vốn đã mất niềm tin (như Nghị quyết 4 đã khẳng định) lại càng mất
niềm tin hơn nữa. Trấn áp có mục đích gây nên sự sợ hãi, thì có sự sợ
hãi, nhưng sự sợ hãi đang được tích lũy trở thành sự phẫn nộ. Các cuộc
đàn áp nông dân đòi đất, khiếu kiện đông người, và đặc biệt phiên tòa xử
các blogger ngày 24-9 vừa qua tại TP HCM, đã bộc lộ thật sự bản chất
của hai từ “dân chủ” gượng gạo mà nhà nước vẫn nhân danh, đã bộc lộ sự
hằn học không cần thiết qua thái độ và cách hành xử ở các phiên tòa, và
qua các ngòi bút tuyên huấn không có tính thuyết phục mà đầy sát khí của
đao phủ. Khoảng cách giữa nhân dân và nhà nước càng rộng, càng trúng ý
Bắc Kinh. Bởi vì nhân dân thì gắn bó với nhu cầu dân chủ, nhà nước độc
tài thì cần sự ủng hộ của ai, nếu không phải là Bắc Kinh vì cùng phe Xã
hội Chủ nghĩa, vốn được xem là yếu tố quyết định cho sự chọn lựa hướng
đi của đất nước, từng xảy ra ở hội nghị Thành Đô năm 1990. Bắc Kinh
không cần dân chủ, họ sẵn sàng thể hiện sức mạnh qua các cuộc đàn áp đẫm
máu như Thiên An Môn, các cuộc đàn áp cực kỳ dã man phong trào luyện
tập Pháp Luân Công diễn ra liên tục đối với hằng trăm ngàn, hằng triệu
công dân Trung Quốc để đạt mộng siêu cường của tập đoàn lãnh đạo. Họ sẽ
rất hào phóng tài trợ, dung dưỡng, khuyến khích cho một chính quyền độc
đoán nằm trong quỹ đạo của mình. “Sự trỗi dậy” tàn bạo che lấp nhân
tính. Họ không mong muốn gì hơn một VN như thế. Đây không phải là
điều Đảng CSVN đã từng lo lắng hay sao? Đảng không thể lấy lại niềm tin
đã mất của nhân dân từ những phiên tòa cay nghiệt như những đòn thù, từ
thái độ căm hờn không cần thiết của lực lượng an ninh, từ những bài
viết tuyên huấn với lập luận “đậm đà” quy chụp trên báo Đảng.
3.
Tham nhũng và chống tham nhũng như những đợt sóng triều nối tiếp nhau
trên nền một cơ chế thích ứng để sinh sản ra chính nó. Cuộc thanh lọc
hàng ngũ, hay đấu tranh phe nhóm, hay chống tham nhũng đang diễn ra, sẽ
diễn biến tới đâu, hoặc tắt tị ở đoạn nào đó, nhân dân đang hồi họp chờ
xem. Thế lực của các nhóm lợi ích sẽ được khoanh lại và bị khống chế hay
đang nở ra theo những ngõ ngách mới? Có ai dám chắc rằng không có bàn
tay của Bắc Kinh đang khuấy đảo từ nhiều tư thế? Lối sống của từng đảng
viên mà “bạn” còn quan tâm “khuyên ta” (1), huống là chuyện lớn lao quan
trọng nầy lại được họ làm ngơ? Dĩ nhiên, Bắc Kinh không bao giờ muốn,
và không cho phép một Việt Nam độc lập, có nền kinh tế phát triển phù
hợp với quan điểm hội nhập, mà Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã chính
thức chuyển thông điệp: muốn phát triển kinh tế phải đi đôi với mở rộng
dân chủ. Có dân chủ, có minh bạch mới chống được tham nhũng. Nhưng Bắc
Kinh cần một Việt Nam có tham nhũng (họ sẽ tạo điều kiện cho), và cũng
cần có chống tham nhũng (họ cũng sẽ tạo điều kiện cho), và cần có đấu
tranh lẫn nhau ( họ sẽ làm trọng tài thu xếp cho). Tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt của Mao Trạch Đông và đệ tử của y tiếp tục thực hiện, là phải
gây cho thiên hạ đại loạn thì mới dễ cai trị. Họ không mong muốn gì hơn thế!
4.
Nội bộ Ban lãnh đạo Việt Nam sẽ không bao giờ được cho phép đoàn kết để
có sức mạnh. Đó là ý muốn nghìn đời của Trung Quốc, cũng là ý muốn của
Bắc Kinh ngày hôm nay. Nhưng với tầm cao “đại cục” của Bắc Kinh ở thế kỷ
21, họ không chỉ muốn gây “đại loạn” ở một vùng đất Việt Nam địa đầu
chiến lược, mà đại loạn toàn vùng Châu Á-Thái Bình Dương, như cả thế
giới đều thấy rõ. Các lãnh đạo Việt Nam, từng người một, tức là mỗi
người, đều có tiếp xúc “song phương” với “một” tâm điểm Bắc Kinh. Ban
lãnh đạo Việt Nam dưới mắt người dân là một “tập hợp mờ”, họ nhìn nhau
còn chưa rõ mặt, nói nhau chưa dám trọn câu, vì thế mọi việc trở nên khó
hiểu. Luật pháp thì chất chồng, cán bộ thi hành thì đầy “sáng tạo”!
Với
lộ trình hành xử trên đây, Việt Nam ngày càng rời xa hơn với cộng đồng
thế giới và càng lùi lại gần hơn nữa với Bắc Kinh. Và như lời Thượng
Tướng Nguyễn Chí Vịnh khẳng định là “sinh mệnh chung của hai dân tộc”
(2). Chuyện sống chết (sinh mệnh) của mỗi dân tộc là chuyện lớn! Chủ
nghĩa Cộng ssarn Quốc tế đã cáo chung từ lâu, ngay khi nó khởi đầu. Còn
có lãnh tụ nào dám dồn cục hai đất nước, hai dân tộc lại làm một, trừ sự
cống nạp, thôn tính, hoặc xâm lăng và sau đó là đồng hóa?! Điều nầy, cả
nghìn năm, Trung Quốc muốn nhưng đã không làm được!
Tạm
gác qua lời nói năng vong mạng của các ông Tướng Tá, như ông Tướng
Vịnh, hay ông Tá Hiển (3), phải chăng, bốn động thái đang diễn ra hiện
nay đều do ý muốn và có bàn tay tạo dựng của Bắ Kinh? Hay chỉ là sự vận
hành tự thân của một nhà nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa (4) trùng hợp
với quỹ đạo và ý chí của Bắc Kinh? Hay chỉ vì sự đồng dạng của thể chế?
Khó lòng để nhận định rằng hai ý nghĩa trên là hoàn toàn tách biệt, vì
nó lẫn vào chung trong một hệ tư tưởng đang đóng vai trò sợi xích sắt,
niềng hai dân tộc vào một “sinh mệnh chung”?
Một
câu hỏi được đặt ra: Việt Nam bị cưỡng bức hay tự nguyện đi vào quỹ đạo
của Bắc Kinh? Hay vừa bị cưỡng bức (bởi nước lớn Trung Quốc), vừa có tự
nguyện (vì cùng hệ tư tưởng)? Một câu hỏi tiếp theo: Ai bị cưỡng bức
hay toàn dân tộc bị cưỡng bức? Bộ phận nào tự nguyện hay cả dân tộc tự
nguyện? Câu hỏi nầy có thể trả lời bằng hai tiếng “không và không !” về
phía dân tộc. Không tự nguyện (với bất cứ chủ nghĩa nào có sự khống chế
của Trung Quốc) và không chấp nhận sự cưỡng bức (của chủ nghĩa bá quyền
nước lớn). Vì Trung Quốc không đáng để sợ đến thế, và không xứng đáng để
được tôn trọng như thế. Phần trả lời còn lại thuộc về những người đang
có trọng trách.
Cách mạng Việt Nam, do Đảng CSVN
lãnh đạo, đã ra đời và dắt dẫn một giai đoạn lịch sử Việt Nam thực hiện
sứ mạng kép với hai phạm trù gắn bó nhau không thể tách rời, là Dân tộc
và Dân chủ. Ngày nay, Việt Nam lại đang đứng trước nguy cơ của cả hai
vấn đề sanh tử nầy, sau một trăm năm xương máu! Lịch sử Việt Nam sẽ còn
tiếp tục dành những giọt nước mắt ray rức về tư tưởng của nhà chí sĩ
Phan Châu Trinh, khi chủ trương hòa nhập vào nền văn minh của Pháp đang
thống trị, để mưu cầu từ dân chủ tiến bộ mà đi đến độc lập dân tộc, vì
ông nhìn thấy trong sự đô hộ đó, có mầm mống của nền văn minh dân chủ.
Đó là một tư tưởng mà chưa được thực nghiệm, dù lối đi nầy, nhiều quốc
gia Đông Nam Á đã thành tựu cả hai mặt dân tộc và dân chủ (5). Nhưng
hoàn cảnh lịch sử nầy đã thuộc về quá khứ. Thời đại ngày nay đã hoàn
toàn khác xưa. Nếu theo cách của Phan Châu Trinh, sẽ là sự rồ dại, điên
khùng nếu ai đó nghĩ rằng, hãy hòa nhập vào hệ tư tưởng Xã hội Chủ nghĩa
Trung Quốc, để từ đó mưu cầu một nền độc lập và văn minh cho mình.
Chúng ta đều hãi hùng nhìn thấy những gì đã và đang diễn ra từ nửa thế
kỷ qua cho đến mỗi ngày của thời đại hôm nay, ở Nội Mông, Tân Cương,
Miến Điện (6), Tây Tạng, Bắc Triều Tiên… Trong vòng tay Trung Quốc, Việt
Nam sẽ trở thành một pháo đài, như con quỹ dữ, một loại quái thai, để
canh gác Biển Đông cho chúng, và quậy phá nhân loại, nguy hiểm gấp nhiều
lần so với Bắc Triều Tiên, để chúng thực hiện giấc mơ “đại cục”của
mình. Đây là điều cảnh giác cho nhân loại.
Ông
cha ta chưa từng mơ hồ về Trung Quốc. Phan Châu Trinh chưa từng có ý
nghĩ dựa vào Trung Quốc. Hồ Chí Minh đã từng nói, thà “chịu đựng” phương
Tây vài năm, còn hơn “chịu đựng” Trung Quốc một nghìn năm (7).
“Sinh
mệnh chung của hai dân tộc” là không thể. Nhưng “sinh mệnh chung của
hai Đảng” thì có thể hay không? Ôm hôn kẻ thù và biến được kẻ thù thành
bạn chăng? Hay hóa thân vào họ? Tu hành như ông Đạt La Lạt Ma, hay bất
cứ ai trên thế gian, cũng chưa làm được điều tương tự.
Đáng
tiếc về những phiên tòa mang tính bạo lực, về những hằn học của cánh an
ninh, về những ngòi bút có “ánh thép” của tuyên huấn đối với người dân,
dù có chống đối, có tiếng nói khác, nhưng chưa thể nói là kẻ thù.
H.Đ.N.
Chú thích:
(1) Lời phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng, tại ĐH 4: “Bạn đã từng khuyên ta…”, “bạn” là chì TQ.
(2) Lời phát biểu của TT Nguyễn Chí Vịnh với Tướng Tàu Mã Hiểu Thiên (9-2012)
(3)
Trung tá Vũ Văn Hiển, CA P6, Q3,TP HCM: Chửi tục vào mặt dân theo cách
du côn, vào ngày xét xử vụ án các blogger, 25-9-2012, hăm “bẻ cổ” bà
Dương Thị Tân, vợ ông Điếu Cày,và chửi ”Tự do cái con c**” khi nhìn hai
mẹ con bà mặt áo thun có in chữ “tự do cho người yêu nước”.
(4)
Theo nhà nghiên cứu Lữ Phương thì Chủ nghĩa xã hội đang hiện hành không
phải là chủ nghĩa xã hội thật sự (nhưng cái xã hội thật ấy thì ở đâu?).
(5)
Quan điểm của các nhà Tuyên huấn VN thì cho rằng, nhờ cuộc chiến đấu
của VN, cùng với 3 giòng thác cách mạng của thế giới, mà các quốc gia
trên đã hưởng thành quả. (Đó chỉ là do mình nghĩ ra thôi, vì sự hiện
diện của VN chưa từng được công trình nghiên cứu nào chứng minh rằng nó
đã làm thay đổi thế giới ).
(6) Miến Điện đã
chuyển sang cơ chế chính trị dân chủ từ 2 năm nay, có lời thúc đẩy động
viên của TT Nguyễn Tấn Dũng về cải tổ dân chủ, khi ông sang thăm bên ấy
(Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì tối), và được thế giới nhiệt
liệt hoan nghênh, chào đón, còn Trung Quốc thì bực bội.
(7)
Ông HCM không dùng từ nầy, không tiện nêu nguyên văn (Nhưng có lẽ ý
nguyện của ông không thành công? xin để cho lịch sử, không dám lạm bàn).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét