Thái Văn Cầu
Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa chấm dứt. Như dự kiến, Tập Cận Bình chính thức thay thế Hồ Cẩm Đào, là Tổng Bí thư.
Có
nhiều bài viết trong hơn một năm qua về bản lĩnh và tham vọng của họ
Tập. Trong khi còn quá sớm cho bất cứ kết luận nào về người lãnh đạo cao
nhất của Trung Quốc, một điều chắc chắn rằng, ngoại trừ khi ông ta gặp
sự cố chính trị hay sự cố sức khỏe không vượt qua được, Tập Cận Bình và
thành phần ban lãnh đạo mới sẽ có quyết định tác động đến đời sống và
tương lai của hơn một tỷ người dân Trung Quốc, đến quan hệ với những
nước khác, đến ổn định của khu vực và của thế giới, và sẽ dẫn dắt Trung
Quốc đến thời điểm đánh dấu 100 năm thành lập Đảng Cộng sản năm 2021.
Bài viết sau là nhằm cung cấp nhận định về các lập luận liên quan đến chủ quyền đất nước và quan hệ Việt - Trung, mà ít hay nhiều, trở nên thời sự vì thay đổi lãnh đạo của nước láng giềng phương Bắc.
1. Tinh thần "đồng chí, anh em”:
Mười
ngày trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam họp hội nghị Trung ương 6 để
quyết định số phận chính trị của Thủ tướng Việt Nam, bên cạnh thảo luận
nhữngvấn đề khác, ông Nguyễn Tấn Dũng gặp Tập Cận Bình [1].
Bất
chấp thất bại trong chính sách kinh tế với thiệt hại to lớn cho đất
nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng "sống sót" sau hội nghị. Dù một số nhà
nghiên cứu độc lập đã tìm cách lý giải, hiện khó ai biết chính xác
nguyên do dẫn đến sự “sống còn” của ông Nguyễn Tấn Dũng.
Sau khi hội nghị Trung ương 6 kết thúc, và một tháng sau khi gặp Tập Cận Bình, ông Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố:
"Trên tinh thần đồng chí, anh em
và thỏa thuận cấp cao giữa hai nước, trên cơ sở luật pháp quốc tế, hai
bên cần bàn bạc, thảo luận, đàm phán để tìm ra giải pháp thỏa đáng, lâu
dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được; không để vấn đề về biển Đông làm ảnh hưởng đến quan hệ hai nước" [2].
Tuyên
bố của ông Nguyễn Tấn Dũng phát ra cùng lúc với chủ trương của Nhà nước
tiếp tục sách nhiễu, trấn áp người dân phản đối động thái hung hãn và
tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.
Khi nói “không để vấn đề về biển Đông làm ảnh hưởng đến quan hệ hai nước”,
ông Nguyễn Tấn Dũng ít nhất gián tiếp cho Trung Quốc biết là lãnh đạo
Việt Nam đặt quan hệ giữa hai nước lên trên tranh chấp chủ quyền.
Như
để đáp trả lại thiện chí của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Trung Quốc
không ngừng đẩy mạnh các hoạt động phi pháp của họ ở Hoàng Sa và Trường
Sa [3].
Quan điểm trên của Thủ tướng Việt Nam hoàn toàn trái ngược với vị thế của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang:
“Quan
điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước là không lùi bước trong tranh chấp
biển Đông. Việc gìn giữ hòa bình trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thì
từ ý thức đến hành động của chúng ta hết sức đầy đủ, nhưng đồng thời
nhiệm vụ bảo vệ, giữ vững chủ quyền vẫn luôn được tiến hành thường
xuyên, không có gì thay đổi. Nhưng trong điều hành cũng có thể chúng tôi
có lỗi chuyện này chuyện nọ, không loại trừ, nhưng ý thức cũng như hành động không bao giờ tách khỏi lập trường, quan điểm: chủ quyền quốc gia là thiêng liêng và bất khả xâm phạm” [4].
Một khi “chủ quyền quốc gia là thiêng liêng và bất khả xâm phạm”,
bảo vệ chủ quyền và quyền lợi đất nước, trong đó bao gồm chủ quyền quần
đảo Hoàng Sa - Trường Sa và thềm lục địa ở Biển Đông, phải là nhiệm vụ,
là trách nhiệm và là ưu tiên cao nhất của lãnh đạo Việt Nam.
2. Việt Nam là "nước nhỏ”:
Có người cho rằng Việt Nam là "nước nhỏ”, ở sát bên một láng giềng hùng mạnh, to lớn lại mang tham vọng bành trướng.
Do
không có chọn lựa để "di chuyển" nước đi nơi nào khác, trong quan hệ
Việt - Trung, Việt Nam cần khéo léo, nhún nhường, tránh làm mất lòng
nước láng giềng này để Việt Nam có thể duy trì hòa bình, tập trung công
sức xây dựng đất nước!
Một lập luận như thế thiếu tính chất khách quan và thực tế.
Trước
hết, trong 14 nước láng giềng với Trung Quốc, về dân số, theo thứ tự,
Việt Nam đứng hàng thứ tư, chỉ sau Ấn Độ, Pakistan, và Nga, nhưng trên
10 nước khác: Myanmar, Afghanistan, Nepal, Bắc Triều Tiên, Kazakhstan,
Tajikistan, Laos, Kyrgyzstan, Mongolia và Bhutan. Về thu nhập bình quân
đầu người (PPP), Việt Nam đứng hàng thứ sáu, trên cả Pakistan, Laos,
Kyrgyzstan, Tajikistan, Bắc Triều Tiên, Myanmar, Nepal và Afghanistan.
Kế
đến, với bờ biển dài hơn 3.200 km, Việt Nam có lợi thế thiên nhiên rất
đáng kể so với Myanmar, Afghanistan, Nepal, Kazakhstan, Tajikistan,
Laos, Kyrgyzstan, Mongolia và Bhutan.
(Nguồn dựa trên ước tính cho năm 2011 [5])
Trong
quan hệ quốc tế, nước nào, dù nhỏ hay lớn, cũng phải biết và tận dụng
mọi lợi thế và thời cơ để bảo vệ chủ quyền và quyền lợi của nước họ.
Nguyên
tắc này trở nên cực kỳ tối quan trọng khi có sự bất cân xứng trong
tương quan lực lượng. Nó đòi hỏi sự khôn khéo và tài năng của người lãnh
đạo qua đó, họ làm rõ ràng sự khác biệt giữa linh động nhưng quyết tâm
bảo vệ chủ quyền, với nhu nhược, bất lực trước tham vọng của ngoại bang.
Lịch sử thế giới nói chung và lịch sử Việt Nam
nói riêng cho thấy rằng sự yếu kém của lãnh đạo, của nhà nước, sự phân
hoá trong xã hội, là yếu tố mời gọi ngoại bang xâm phạm chủ quyền, thôn
tính lãnh thổ của một nước.
Chẳng vì thế mà một
số nước như Myanmar, Bắc Triều Tiên, Mongolia, v.v. tuy nhỏ hơn Việt
Nam, vẫn tranh thủ duy trì vị thế độc lập với nước lớn cạnh bên, sẵn
sàng có hành động kiên quyết, thể hiện chủ quyền, vì họ đặt quyền lợi
đất nước lên trên hết [6].
Chẳng vì thế mà nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh tuyên bố:
“Tôi
khẳng định lại một lần nữa, giữ độc lập, chủ quyền đất nước là mục
tiêu, là nhiệm vụ tối thượng, số một, quan trọng nhất. Chúng ta luôn
muốn hòa bình, hợp tác, hữu nghị nhưng quyết không đổi chủ quyền để lấy
những điều đó. Hòa bình, hợp tác ngang bằng với chủ quyền là cách
nói, là mưu đồ của Trung Quốc. Chúng ta nhất quyết không đổi chủ quyền,
không đổi đất đai, biển đảo Tổ quốc để lấy hòa bình” [7].
3. “Đời con, đời cháu" vẫn phải tiếp tục khẳng định chủ quyền:
Năm
1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm nhóm đảo phía Tây quần đảo
Hoàng Sa; năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm nhóm đảo-đá thuộc
quần đảo Trường Sa. Hơn 100 chiến sĩ Việt Nam hy sinh trong hai nỗ lực
riêng biệt bảo vệ chủ quyền đất nước.
Song song
với hành động sử dụng vũ lực chiếm đoạt Hoàng Sa - Trường Sa của Việt
Nam, Trung Quốc tích cực thúc đẩy nghiên cứu "chủ quyền" Hoàng Sa -
Trường Sa, tung hoả mù về chứng cứ lịch sử để đánh lừa nhân dân Trung
Quốc và dư luận quốc tế, đào tạo đội ngũ chuyên gia về cơ chế, luật pháp
quốc tế trong tranh chấp chủ quyền, xây dựng kinh tế, quốc phòng vững
mạnh, v.v.
Trong cùng thời gian gần 30 năm, kể
từ khi thống nhất đất nước, Nhà nước Việt Nam không thể hiện được hành
động cụ thể đáng ghi nhận nào nhằm bảo vệ và khôi phục chủ quyền Hoàng
Sa - Trường Sa.
Không hề là một ngẫu nhiên khi
đa số học giả phương Tây, qua đánh giá chứng cứ chủ quyền Hoàng Sa -
Trường Sa, cho rằng chứng cứ lịch sử của Trung Quốc “mạnh” hơn, “thuyết
phục” hơn chứng cứ lịch sử của Việt Nam hay đưa ra quan điểm giải quyết
tranh chấp hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam! [8]
Khi
Trung Quốc gia tăng mức độ coi thường pháp luật quốc tế của họ trên
Biển Đông, bắt giữ, đâm chìm tàu cá, bắn chết ngư dân Việt Nam hành nghề
trong khu vực quen thuộc hàng trăm năm qua, ngoài việc lãnh đạo Việt
Nam kêu gọi, dùng "tinh thần đồng chí, anh em" giải quyết tranh chấp, quan chức Nhà nước không ngần ngại tuyên bố:
"Chúng ta tiếp tục đấu tranh để khẳng định chủ quyền lâu dài. Đời con, đời cháu vẫn phải tiếp tục khẳng định chủ quyền" [9].
Do
thái độ từ chối hợp tác của Trung Quốc, giải quyết tranh chấp Hoàng Sa -
Trường Sa không dễ dàng hay đơn giản. Đây là điều không người nào phủ
nhận.
Tuy nhiên, để đời con, đời cháu giải quyết tranh chấp Hoàng Sa - Trường Sa, qua “tiếp tục khẳng định chủ quyền”, có nên là vị thế của lãnh đạo hay của những ai quan tâm đến chủ quyền và quyền lợi đất nước hay không ?
Trong
lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta chịu đựng bao
mất mát, sẵn sàng đổ máu xương, hy sinh cả mạng sống, là để đời con, đời
cháu không phải đối đầu với giặc Nam Hán, giặc Nguyên Mông, giặc Minh,
giặc Thanh, thực dân Pháp, v.v.
Nếu so sánh
tương quan lực lượng giữa Việt Nam và ngoại bang thì tưởng chừng như
trứng chọi đá, nhưng trong mọi tình huống, dân tộc Việt Nam luôn luôn
vượt qua được tất cả thử thách, loại trừ được hiểm họa ngoại bang và đạt
thắng lợi sau cùng.
Ngày nay, một khi mối quan hệ được lãnh đạo Việt Nam nhiều lần nhấn mạnh là xây dựng trên cơ sở “vừa là đồng chí, vừa là anh em”,
mà không giúp giải quyết được tận gốc rễ mối đe doạ đến chủ quyền đất
nước, để phải chờ đợi đời con, đời cháu, thì có hai trường hợp: một là
bản chất của quan hệ Việt - Trung cách xa điều Nhà nước Việt Nam kêu gọi
người dân tin tưởng vào; hai là Nhà nước không làm đúng với nhiệm vụ,
trách nhiệm và ưu tiên mà người dân giao phó, như khẳng định của Chủ
tịch nước: “chủ quyền quốc gia là thiêng liêng và bất khả xâm phạm”.
Ở
một góc độ khác, luật pháp quốc tế có nguyên tắc "quieta non movere",
qua đấy nói rằng “những tình huống hiện hữu đã và đang ổn định trong một
thời gian dài thì không nên bị xáo trộn” (Xem "Boundary & Territory
Briefing - Estoppel, Acquiescence and Recognition in Territorial and
Boundary Dispute Settlement", Nuno Sérgio Marques Antunes, 2000).
Toà án Quốc tế (ICJ) từng sử dụng nguyên tắc này trong phán xử tranh chấp giữa hai nước.
Thử
hỏi nguyên tắc này mang đến hệ quả thuận lợi cho Việt Nam hay cho Trung
Quốc khi lãnh đạo hay quan chức Nhà nước có tư duy để đời con, đời cháu
giải quyết tranh chấp Hoàng Sa - Trường Sa?
Dù
vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế với hành động sử dụng vũ lực để
chiếm đoạt lãnh hải, đâm chìm tàu, giết hại ngư dân, v.v., Trung Quốc
lại là nước có đội ngũ chuyên gia nắm vững cơ chế, luật pháp quốc tế
trong giải quyết tranh chấp chủ quyền.
Trung
Quốc luôn luôn tận dụng mọi ưu thế của họ để theo đuổi tham vọng bành
trướng. Những chiêu bài như đòi hỏi đàm phán song phương ngay cả trong
vấn đề đa phương về tranh chấp, trì hoãn đàm phán thông qua Bộ Quy tắc
ứng xử (Code of Conduct-COC), kêu gọi “gác tranh chấp, cùng khai thác”,
v.v. có chung một đích đến: thuận lợi cho Trung Quốc và bất lợi cho các
nước liên hệ!
*
* *
Trong Thư ngỏ của một số nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước gửi lãnh đạo Việt Nam vào đầu tháng Tám vừa qua có đoạn nói:
“Trung
Quốc đã đi được những bước quan trọng trong việc thực hiện mưu đồ chiến
lược bá quyền của họ, nhằm làm cho Việt Nam suy yếu, chịu khuất phục
hay lệ thuộc vàoTrung Quốc. Họ dùng nhiều thủ đoạn từ tinh vi
đến trắng trợn để dụ dỗ, mua chuộc, thâm nhập, lũng đoạn, uy hiếp, lấn
chiếm không chỉ trên Biển Đông mà còn trên nhiều địa bàn khác, không chỉ
xâm phạm lãnh thổ, lãnh hải mà còn thâm nhập và gây hại về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội; đồng thời tìm cách “chia để trị” các nước
ASEAN” [10].
Xem kỹ lại quá
trình quan hệ Việt - Trung trong hơn 60 năm nay, người ta không thể
không đi đến kết luận tương tự: chiến lược, kế sách lâu dài của Trung
Quốc đối với Việt Nam là nhất quán, trước sau như một.
Ở
mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, tùy tình hình, Trung Quốc thay đổi chiến
thuật nhưng mục đích sau cùng của Trung Quốc không bao giờ khác biệt,
như trong một nhận định hơn 30 năm trước:
“Trong
chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ coi
Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ” [11].
Ngày
nay một bộ phận trong guồng máy Nhà nước, có khả năng vì quyền lợi cá
nhân, vì quyền lợi phe nhóm, sẵn sàng gạt bỏ bài học lịch sử trong quan
hệ Việt - Trung, sẵn sàng quên đi sự hy sinh của bao thế hệ trước trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Tuy nhiên, sự
bức xúc trước hành động ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông cho thấy
tuyệt đại đa số người Việt Nam, từ bác cựu chiến binh ở Lạng Sơn, anh
nông dân từ vùng đồng bằng sông Cửu Long, em học sinh trung học Đà Nẵng,
v.v., vẫn khắc ghi tinh thần yêu nước hào hùng của Ngô Quyền, Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, v.v. Họ
sẵn sàng đứng lên, tiếp bước ông cha, đáp lời Tổ quốc kêu gọi.
Hơn
bao giờ hết, lãnh đạo Việt Nam cần thể hiện bản lĩnh và quyết tâm, mạnh
dạn khắc phục thiếu sót trong quan hệ Việt - Trung, dẫn đến sự bất cân
xứng trong nhiều lĩnh vực: kinh doanh, mậu dịch, xây dựng, v.v., đe doạ
an ninh quốc gia [12].
Để bảo vệ chủ quyền và để
phát triển đất nước, thay vì chờ đợi sự giúp đỡ từ bên ngoài, lãnh đạo
Việt Nam cần tập trung xây dựng nội lực, tận dụng nhân tài – những người
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vì tương lai dân tộc; lãnh đạo
Việt Nam cần tôn trọng và lắng nghe ý kiến khác biệt, trao trả tự do
cho những người bị kết án vì thực thi các quyền hạn quy định trong Hiến
pháp, qua đó phát huy cao độ đoàn kết dân tộc – yếu tố không thể thiếu
trong truyền thống lịch sử hàng ngàn năm, khi phải đối phó với đe dọa
của ngoại bang hay thảm họa thiên nhiên.
Bằng
không, khi đối diện với chất vấn của lịch sử, đối diện với chất vấn của
thế hệ tương lai, lãnh đạo Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam là người
duy nhất phải trả lời.
Như lời nhắn gửi của Chủ tịch nước:
“Biết
ơn những thế hệ đi trước, chúng ta phải làm mọi điều có thể để đất nước
phát triển. Tự hào với những gì đã làm được, nhưng chúng ta cũng cần
phải biết hổ thẹn với tiền nhân, với những bậc tiên liệt về những yếu
kém, khuyết điểm của mình đã cản trở bước đi lên của dân tộc”[13].
T.V.C.
Chú thích:
4. http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121018/chu-quyen-quoc-gia-la-thieng-lieng-bat-kha-xam-pham.aspx
8.
Trong tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa-Trường, học giả phương Tây với quan
điểm thuận lợi cho Việt Nam: Monique Chemillier-Gendreau (1996); học
giả phương Tây với quan điểm thuận lợi cho Trung Quốc: Dieter Heinzig
(1976), Marwyn Samuels (1982), Daniel Dzurek (1996), Greg Austin (1998),
Stein Tonnesson (2001), v.v.
11.
Xem văn kiện “Sự thật về Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua”
do bộ Ngoại giao nước CHXHCNVN công bố với thế giới năm 1979 qua ba thứ
tiếng Anh, Pháp, và Tây-ban-nha.
12. “Hơn
20 năm qua, FDI từ Trung Quốc chỉ chiếm 1,5% tổng vốn FDI đổ vào Việt
Nam. Nhưng nếu là tổng thầu EPC thì tới 90% các công trình điện, khai
khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất…của Việt Nam đều do Trung Quốc đảm
nhiệm.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét